Với hệ thống đình, chùa đa dạng và đặc sắc, Bạc Liêu thu hút du khách tìm đến trong hành trình khám phá những giá trị văn hóa tâm linh. Một trong những ngôi miếu lâu đời có quan hệ mật thiết với những sự kiện lịch sử quan trọng trong quá trình hình thành làng xã ở Bạc Liêu phải kể đến là Tiên sư cổ miếu, tọa lạc tại khóm 2, phường 7, thành phố Bạc Liêu. Sở hữu những giá trị đặc sắc về kiến trúc và lịch sử, Tiên sư cổ miếu đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1997.
Giá trị lịch sử
Tiên sư cổ miếu là nơi lưu giữ nhiều giá trị lịch sử thời kỳ mở cõi của vùng đất Bạc Liêu. Người xưa kể rằng, những năm 50 của thế kỷ XIX, có một số nơi như Ba Thắc, Bãi Xào, Lạc Hòa… loạn lạc. Nguyễn Tri Phương (1800 – 1873) bấy giờ giữ chức Khâm sai kiêm Tổng đốc các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên… đã đem quân trừ diệt loạn phỉ. Dưới sự chỉ huy tài ba của ông, đội quân tinh nhuệ đã nhanh chóng dẹp yên quân phiến loạn.
Trong thời gian trú đóng trên một gò đất thuộc vùng miếu tiên sư ngày nay, có một ngôi miếu khiêm tốn thờ Tam giáo tổ sư làm bằng cây rừng lợp lá đơn sơ. Miếu cũng không được đề tên trang trọng. Sau này, Nguyễn Tri Phương đã cho quân lính dùng lá, cây và một số vật liệu khác để xây dựng lại ngôi miếu. Miếu mới xây rộng gấp đôi miếu cũ và đặc biệt được chính tay ông viết tấm bảng đầu tiên bằng chữ Hán ghi “Tiên sư miếu”. Ý nghĩa ông muốn nhắc nhở con cháu đời sau phải biết ghi nhớ công ơn của những người đã có công khai hoang lập ấp và những người anh hùng quên mình bảo vệ mảnh đất quê hương.
Năm 1853, Nguyễn Tri Phương được phong hàm Đông các Đại học sĩ, lãnh chức Kinh lược sứ Nam Kỳ. Ông đã tổ chức khai phá đất hoang thành lập thôn ấp ở nhiều nơi. Khoảng năm 1855, ông đã đem một số lớn lưu dân người Việt vào Bạc Liêu khai khẩn đất hoang lập nhiều thôn làng ở đây, như Vĩnh Lợi, Vĩnh Mỹ, Phong Thạnh, Vĩnh Trạch… Nguyễn Tri Phương rất chú trọng mở mang dân trí. Nhận thấy ở đây người Việt càng ngày càng đông, cần phải có một nơi để học hành nên ông ra lệnh cho các chức sắc ở địa phương mở rộng diện tích của miếu Tiên sư bằng cách cất thêm tiền sảnh và hai chái hai bên để làm nơi dạy học.
Ngôi trường được thành lập theo ý của quan Kinh lược nên được các giới chức làng tổng ở Bạc Liêu rất quan tâm, nhiều thầy đồ ở các nơi được mời về giảng dạy. Vì vậy có thể nói miếu Tiên Sư là nơi duy nhất dạy chữ Nho ở Bạc Liêu thời đó và cũng là mái trường dạy chữ Việt đầu tiên ở địa phương này.
Giá trị di tích
Tiên sư cổ miếu là nơi thờ tự các danh nhân có công với làng xã như Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Cao Minh Thạnh, Nguyễn Tấn Phát, Triệu Vạn Tượng, Lý Hữu Hoan, Phan Kim Lý, Trịnh Thiện Kim, Cao Tấn Hưng, Trịnh Thành Long… và 20 chiến sĩ chống Pháp đã anh dũng hi sinh, trong đó có bảy người bị Pháp xử bắn tại sân miếu.
Tiên sư cổ miếu đã trải qua nhiều lần xây dựng, trùng tu. Năm Tân Sửu (1901), các chức sắc và nhân dân trong làng lập Hội bảo trì, quyên góp tiền từ bá tánh xây dựng lại miếu bằng vật liệu cơ bản có tính bền vững và đổi tên Tiên sư miếu thành Tiên sư cổ phủ. Đến năm Tân Hợi (1911), miếu được tu sửa lại lần hai và lần ba là vào năm Quý Dậu (1993). Năm 1964, miếu lại được đổi tên thành Tiên sư cổ miếu và tên gọi này tồn tại cho đến ngày nay.
Đến thăm di tích Tiên sư cổ miếu, giữa không gian khoáng đạt pha lẫn sự trang nghiêm, Tiên sư cổ miếu khoác lên mình dáng vẻ trầm mặc, cổ kính được xây dựng theo kiểu hình chữ "tam" - kiểu kiến trúc truyền thống của đình chùa Nam bộ. Bên ngoài là cổng tam quan, trên cổng có mái nóc, trên mái nóc có tượng đôi rồng tranh châu. Phía sau cổng tam quan là một khoảng sân rộng thuận tiện cho khách thập phương đến đây chiêm bái. Tiếp giáp với khoảng sân là nhà võ - nơi dùng để tiếp khách, làm chỗ nghỉ ngơi cho khách đến viếng miếu. Trong cùng là gian chính điện thờ bài vị tiên sư, hai bên là bàn thờ của tả ban và hữu ban. Bên hông miếu Tiên sư là một gian nhỏ thờ Bà Chúa Xứ.
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, Tiên sư cổ miếu phủ màu thời gian, là một trong số những ngôi miếu tồn tại lâu đời nhất ở Nam bộ. Hằng năm nơi đây tổ chức nhiều hoạt động lễ hội phong phú, ngoài những ngày lễ lớn, ngôi miếu còn có những ngày cúng các vị thần được thờ trong miếu, nên nơi đây thường thu hút đông đảo du khách gần xa đến tham quan, chiêm bái, cầu an, cầu gia đạo hạnh phúc, con cái học hành chăm ngoan,… và thắp nén hương tưởng niệm, tỏ lòng tri ân với những bậc tiền hiền.